NHÀ THÔNG THÁI THỨ TƯ
(The Other Wise Man by Henry Van Dyke)
TẠO ÂN chuyển ngữ
Còn một nhà thông thái nữa tên là Artaban. Ông cũng là một trong những nhà thông thái. Ông ở Ba Tư có nhiều của, biết nhiều hiểu rộng, và có lòng tin tốt. Cùng các đồng nghiệp, ông lục tìm trong Thánh Kinh về thời gian đấng Cứu Thế ra đời. Họ biết trước một ngôi sao sẽ xuất hiện. Ông đồng ý với những nhà thông thái kia rằng Ông sẽ quan sát ngôi sao lạ ở Ba Tư và những nhà thông thái kia sẽ xem xét ngôi sao mới từ Babylon.
Vào đêm mà Ông tin điềm lạ xuất hiện, Artaban leo lên nóc nhà nhìn bầu trời. “Nếu ngôi sao hiện ra, họ sẽ đợi ta mười ngày, sau đó tất cả đồng hành về Giê-ru-sa-lem. Ta đã chuẩn bị mọi thứ cho cuộc hành trình. Ta đã bán hết của cải để mua ba món bảo vật: một viên bích ngọc, một viên hồng ngọc, và một viên ngọc trai. Ta muốn dâng chúng cho vị Vua như cống lễ.”
Trong lúc Ông đang nhìn bầu trời, một vùng ánh sáng trong xanh bùng phát trong màn đêm, bao bọc bởi hào quang rực đỏ. Artaban cúi đầu. “Đây là điềm báo.” Ông nói. “Vì Vua sẽ đến và ta sẽ đi gặp Ngài.”
Khoái mã, sẵn sàng với yên cương, đang trong chuồng háo hức dậm vó như muốn chia sẻ niềm hân hoan của chủ nhân.
Artaban leo lên yên ngựa và khấn: “Cầu xin Thượng Đế giữ gìn chúng ta đừng vấp ngã và linh hồn chúng ta khỏi sự chết.”
Người và ngựa bắt đầu cuộc hành trình. Mỗi ngày chú ngựa trung thành thâu ngắn đoạn đường. Vào lúc chập tối ngày thứ mười, họ đến ngoại thành Babylon. Trong một cù lao trồng nhiều cây cọ, chú ngựa linh cảm thấy điều gì đó khó khăn và đi chậm lại. Chú ngựa sau đó đứng im và run rẩy toàn thân.
Artaban xuống ngựa. Dưới ánh sao đêm mờ hiện ra một người đàn ông nằm bên vệ đường. Màu da người đàn ông chứng tỏ cơn sốt có thể làm chết người. Cái lạnh của chết chóc từ bàn tay gầy guộc. Artaban quay mặt tiếp tục đi thì nghe một tiếng thở dài thoát từ môi người bệnh.
Artaban áy náy vì không thể ở lại chăm sóc người khách lạ đang hấp hối. Nhưng đây là việc mà cả đời Ông theo đuổi. Ông không thể nào bỏ cái phần thưởng của nhiều năm nghiên cứu để làm một việc thương xót đồng loại. Nhưng làm sao Ông có thể đành lòng bỏ một người cô đơn đang chết?
“Chúa của sự thật và xót thương,” Artaban cầu xin, “hãy soi sáng cho tôi ơn khôn ngoan mà duy nhất chỉ mình Ngài biết.” Ngay sau khi ấy Ông ta biết rõ rằng mình không thể tiếp tục lên đường. Ông vừa là y sĩ vừa là nhà thiên văn. Ông cởi áo choàng và bắt đầu trị bệnh. Vài tiếng sau bệnh nhân tỉnh lại. Artaban để lại hết phần bánh và rượu nho. Ông cũng để lại một bình thuốc và chỉ dẫn cách dùng.
Mặc dầu Artaban đã cố gắng phi ngựa thật nhanh chặng đường cuối, nhưng đã đến trễ điểm hẹn sau lúc mặt trời mọc. Các bạn không thấy đâu ngoại trừ một mẩu giấy để lại với hàng chữ “Chúng tôi đợi quá nửa đêm và chúng tôi bắt buộc phải lên đường tìm kiếm Đức Vua. Hãy theo chúng tôi qua sa mạc.”
Artaban ngồi xuống ê chề, hai tay ôm mặt. “Làm sao mình có thể vượt sa mạc thiếu lương thực với con ngựa kiệt sức? Mình phải quay trở lại Babylon, bán viên bích ngọc, mua thêm lạc đà và lương thực. Mình khó có thể đuổi kịp nhóm bạn. Chỉ có Chúa Từ Bi mới biết được mình có thể đánh mất mục tiêu chỉ vì mình chậm lại để làm một việc từ bi.”
Vài ngày sau đó, Artaban đến được Bê-lem. Đường phố vắng tanh. Có tin đồn rằng vua Hê-rô-đê ra lịnh quân lính đi thâu thuế. Dân chúng ở trong thành kéo nhau ra những ngọn đồi mà ở đó vua không thể làm gì được họ.
Một căn nhà hé cửa. Artaban có thể nghe được tiếng ru con. Ông bước vào và tự giới thiệu mình. Người đàn bà nói cho ông ta biết ba nhà thông thái đã thấy xuất hiện ở Bê-lem ba ngày trước. Họ bái kiến Giu-se, Maria và hài nhi, và để lại lễ vật bên chân Ngài. Họ đã biến đi một cách mơ hồ giống như lúc họ đến. Ông Giu-se đã đưa bà Maria và hài nhi bí mật trốn đi, nghe nói vượt qua Ai-cập cũng ngay đêm đó.
Đang lúc lắng nghe, đứa bé sơ sinh đưa bàn tay bụ bẫm chạm vào gò má Ông và cười. Lòng ông ta ấm hẳn lên. Bất thình lình, ngoài cửa có tiếng ồn ào hỗn tạp, tiếng khóc thét của phụ nữ, tiếng la thất thanh: “Lính Hê-rô-đê đang giết trẻ em!”
Artaban đi ra cửa. Một đám lính đang chạy tới. Người lính chỉ huy xông đến cửa, xô Artaban qua một bên, nhưng Artaban không phản ứng. Mặt Ông bình tĩnh như lúc ngắm sao trời. Cuối cùng Ông duỗi thẳng cánh tay, mở bàn tay ra với viên hồng ngọc lớn. Ông nói: “Tôi sẽ tặng viên ngọc này cho vị chỉ huy biết điều. Xin ông tiếp tục thi hành công việc và bỏ qua cho căn nhà này.”
Người chỉ huy ngạc nhiên ngắm hào quang của viên ngọc và nói với thuộc hạ: “Bỏ đi. Nhà này không có con nít.”
Ngay sau đó Artaban than: “Ôi. Lạy Chúa. Tha lỗi cho con. Con đã phí phạm của cho thường nhân, mà đáng nhẽ thuộc về Thiên Chúa. Con có còn xứng đáng diện kiến đức Vua không?”
Nhưng lúc đó vang lên tiếng khóc sung sướng của người đàn bà. Bà đứng trong cái bóng sau lưng của Ông và thút thít: “Ngài đã cứu mạng đứa bé. Xin Chúa chúc lành, gìn giữ, và ban cho ngài bình an.”
Artaban tiếp tục lần mò theo đức Vua, đi qua tận Ai-cập, hỏi thăm khắp mọi miền về tin tức gia đình nhỏ bé đã trốn đi. Qua nhiều năm, người ta thấy ông vẫn tiếp tục lục tìm. Có người thấy ông lẩn quẩn ở những kim tự tháp. Có người thấy ông ở Alexandria vấn kế một thầy rabbi; thầy bàn với ông rằng đừng tìm đức Vua ở chốn cao sang mà nên tìm ở chốn nghèo hèn.
Ông đi ngang qua những vùng đất có nạn đói đang hoành hành dữ dội. Dân nghèo kêu gào đòi bánh. Lúc này Ông đang ở những thành phố như vậy. Ông đi thăm những kẻ bị áp bức và những tù nhân khốn khổ. Ông lục lọi ở những nơi buôn bán nô lệ. Mặc dầu Ông không gặp được đấng để tôn thờ, nhưng Ông gặp được rất nhiều người để phục vụ. Đó là những năm tháng Ông cho kẻ đói ăn, phát quần áo cho người trần truồng, chữa lành bệnh nhân, và an ủi tù nhân.
Ba mươi ba năm đã qua từ lúc bắt đầu cuộc tìm kiếm. Tóc Ông giờ bạc trắng như tuyết. Ông biết ngày chết gần kề, nhưng vẫn khắc khoải với niềm hy vọng kiếm được đức Vua. Ông đến Giê-ru-sa-lem một lần cuối.
Lúc đó vào ngày lễ Vượt Qua. Thành phố tràn ngập khách lạ. Artaban hỏi họ đang đi đâu vậy. Một người trả lời: “Chúng tôi đang đi tới Gôn-gô-tha ở ngoài thành. Có hai tên trộm sẽ bị đóng đinh cùng với một người tên là Giê-su miền Na-gia-rét. Ông này làm nhiều việc lạ cho nhiều người. Ông tự xưng là Con Thiên Chúa. Các thầy tư tế và bậc kỳ lão nói ông phải chết. Phi-la-tô sẽ xử tử ông.”
Một cách trùng hợp tấu xảo, những từ ngữ quen thuộc này thấm vào trái tim vốn đã mệt mỏi của Artaban, chúng đã dẫn dắt Ông cả một đời người băng ngàn vượt biển, nhưng ngay lúc này, chúng chỉ là những lời tuyệt vọng. Đức Vua bị loại bỏ và ném ra ngoài. Có thể Ngài đang chết. Có lẽ nào Ngài cũng là đấng mà ngôi sao ba mươi ba năm xưa đã xuất hiện báo tin?
Trái tim Artaban đập mạnh và nhanh. Ông suy nghĩ: “Ta sẽ kiếm ra đức Vua, dùng bảo vật đút lót kẻ thù của đức Vua, để cứu Ngài khỏi chết.”
Trong lúc Artaban đến Can-va-ri, ông nhìn thấy một đám lính trên đường kéo lê một phụ nữ đang khóc lóc. Artaban đứng lại, người phụ nữ cố vùng vẫy khỏi đám người đang hành hung cô. Cô chạy đến ôm hai chân ông.
“Xin thương đến tôi.” Cô than khóc “Và cứu tôi. Cha tôi cũng là một nhà thông thái. Cha tôi mới chết. Tôi sẽ bị mang đi bán làm nô lệ để trả nợ cho cha tôi.”
Artaban run sợ và lại một lần nữa nhận ra sự giằng co đang nhen nhúm trong hồn. Cái cảm giác giống như lần ở đám cây cọ xứ Babylon, như lần ở căn nhà thành Bê-lem. Đã hai lần lễ vật hứa dâng tặng đức Vua vuột mất. Ông đã phải dùng để cứu người. Không lẽ ông phải thất bại lần nữa hay sao? Một điều chắc chắn là ông phải cứu cô gái đáng thương này khỏi tay bọn ác ôn.
Ông lấy viên ngọc trai đặt vào tay cô gái và nói: “Này con, đây là tiền chuộc thân. Đây cũng là lễ vật cuối cùng ta hy vọng sẽ giữ lại được để tặng đức Vua.”
Trong lúc ông đang nói, bóng tối phủ bầu trời và mặt đất rung chuyển. Nhà cửa lung lay. Đám lính sợ, chạy tán loạn. Artaban đổ gục xuống chân tường. Ông còn sợ gì nữa? Ông còn hy vọng gì nữa. Ông đã cho đi tất cả lễ vật. Công cuộc tìm kiếm đã chấm dứt. Ông đã thất bại. Còn gì để nói nữa?
Cơn chấn động tiếp tục dưới thân ông. Một mảnh ngói lớn từ mái nhà rớt lên người ông. Ông nằm đó ngừng thở và xanh xao. Rồi có tiếng nói nhỏ từ vùng tranh tối tranh sáng. Nó giống như khúc nhạc vọng về từ xa xăm. Cô gái vừa được cứu, nghiêng mình và nghe được: “Không phải đâu. Lạy Chúa. Tôi nào thấy Chúa đói mà cho ăn; thấy Chúa khát mà cho uống. Có khi nào thấy Chúa bệnh hoặc bị giam cầm mà nâng đỡ, ủi an. Ba mươi ba năm qua tôi tìm Ngài, nhưng không bao giờ thấy mặt Ngài hoặc phục vụ Ngài, thưa Đức Vua.”
Tiếng nói êm dịu vang lên một lần nữa: “Quả thật, Ta nói với ngươi tất cả những điều gì ngươi làm cho người anh em bé nhỏ nhất của Ta tức là đã làm cho chính Ta.”
Một vùng ánh sáng êm đềm, thật diệu vợi và sung sướng, bừng lên trên khuôn mặt của Artaban. Môi ông thở ra hơi thở dài cuối cùng. Cuộc hành trình chấm dứt. Các lễ vật đã được chấp nhận. Nhà thông thái kia đã tìm được đức Vua.
Tạo Ân